An Khê
An Khê là một địa danh biểu tượng cho chiến thuật phục kích của cộng quân, và cho tệ trạng lệ thuộc vào đường giao thông của quân Pháp; tệ trạng “dính vào mặt đường” giúp cộng quân tận dụng chiến thuật phục kích để dễ dàng thắng nhiều trận lớn trên quốc lộ 19.
Trước1954, An Khê chỉ là một xã nhỏ, dân số trên dưới 5,000 người, nằm trên đường 19 nối liền từ Pleiku xuống Quy Nhơn, nhỏ đến mức ngoài con đường 19, An Khê không còn một con đường nào khác tráng nhựa. Tuy nhiên, nhu cầu phòng thủ An Khê, một địa điểm không cần và không nên phòng thủ, đã khiến toàn bộ lực lượng Liên Ðoàn Lưu Ðộng số 100, trên dưới 3,000 quân Pháp, bị tiêu diệt chỉ trong một trận phục kích tại đèo Mang Yang, vào năm 1954.
Chúng ta đã trả giá máu rất đắt vì lệ thuộc vào
những trục giao thông Quốc Lộ 1, QL 19, 14, 21 và tỉnh lộ 7
Quốc lộ 19, con đường máu thứ 1001
của chiến trường Việt Nam …
3,000 lính Pháp bị giết tại khúc đường đèo Mang Yang
Ðoàn công voa 240 xe của Liên Ðoàn 100 qua đèo Mang Yang
Năm 1975, chúng ta tiếp tục duy trì tệ trạng “dính vào mặt đường”, khiến hàng ngàn quân nhân thuộc Quân Khu II và cư dân thuộc hai thị trấn Kontum và Ban Mê Thuột đã bị Việt Cộng sát hại, cũng chỉ trong một cuộc phục kích trên tỉnh lộ 7.
An Khê và 4 con Quốc Lộ 1, 19, 14, và 21 tạo thành khu tứ giác tử thần đóng khung bằng 4 thị trấn Pleiku, Qui Nhơn, Ninh Hòa và Ban Mê Thuột trấn 4 góc.
Trở lại thời điểm 1953, thời điểm Việt Minh đang chủ động tấn công hệ thống phòng thủ diện địa tại miền Bắc Việt Nam; họ đột ngột mạnh hẳn lên trên bình diện quân sự, vì sau chiến thắng tại Trung Hoa, Trung Cộng rảnh tay với cuộc nội chiến, dồn tiếp vận sang giúp Việt Minh võ trang đầy đủ 7 sư đoàn chủ lực và một sư đoàn nặng.
Tại Trung Việt, Việt Minh “kiểm soát” nguyên một giải bờ biển từ Quy Nhơn xuống đến Tuy Hoà mà chúng gọi là Liên Khu 5. Tôi đóng hai chữ “kiểm soát” trong ngoặc kép để trình bày là người Pháp và người Mỹ quan niệm không chính xác việc kiểm soát hay không kiểm soát một diện địa.
Tôi chỉ thảo luận về quan niệm của người Pháp và người Mỹ mà không đề cập đến quan điểm của người Việt Nam chúng ta, vì trong suốt 30 năm chiến tranh chưa bao giờ chúng ta được có một quan niệm chiến lược hay chiến thuật khác với quan niệm của những tướng lãnh ngoại quốc, những người trên danh nghĩa chỉ là tư lệnh lực lượng đồng minh đến giúp chúng ta bảo vệ Việt Nam chống lại cuộc xâm lược võ trang của cộng sản.
Thành danh từ những chiến trường quy ước của Ðệ Nhị Thế Chiến, họ đến Việt Nam mang nặng trong ba lô những quan niệm chiến thuật và chiến lược lỗi thời của cuộc chiến đã qua để áp dụng vào cuộc chiến họ mới thoạt nhận lãnh trách nhiệm chỉ huy.
Mang nhãn quan sai lầm, giá trị chiến đấu của các danh tướng còn thua kém những tệ tướng “không biết gì cả”, vì vị tệ tướng chỉ không biết, chứ không sai lầm trong hiểu biết về chiến trường.
Năm 1945, nếu có một tệ tướng nào của Pháp bị truyền thông phỏng vấn, hỏi xem ông ta cần bao nhiêu thời gian để tái chiếm Việt Nam, thì ông này có thể đã trả lời rất sai, nhưng sai đến đâu cũng không thể sai hơn danh tướng Jacques Philippe Leclerc. Ông ta bảo ông chỉ cần 6 tháng.
Leclerc chỉ huy quân Pháp tái chiếm lãnh thổ Pháp
bị quân Ðức chiếm đóng trong suốt 5 năm Ðệ Nhị Thế Chiến
Danh tướng chỉ huy chiến trường Cao Nguyên vào thời điểm 1953 là thiếu tướng De Beaufort, ông cũng là tư lệnh mặt cao nguyên của cuộc hành quân Atlante để “tái chiếm” vùng duyên hải Nam Trung Việt.
Quan niệm chiếm đóng và tái chiếm là sai lầm khiến người Pháp thất trận. Họ tưởng họ “chiếm” Cao Nguyên, trong lúc thật sự họ chỉ chiếm trên dưới hai chục thị trấn, diện tích tổng cộng không đến 1% diện tích Cao Nguyên. Họ cũng sai lầm khi họ tưởng địch quân chiếm 99% diện tích còn lại. Thật ra quân cộng sản không chiếm chỗ nào cả, không phòng thủ chỗ nào cả.
Họ quan niệm diện địa chỉ là chiến địa, trên đó họ tìm được thế tấn công thượng phong vì đối phương chọn thể thụ động phòng thủ.
Người Pháp cũng coi vùng đất Cao Nguyên nằm về hướng Tây của quốc lộ 14, con đường nối Pleiku với Kontum và Ban Mê Thuột là đất địch, trừ diện tích những tiền đồn họ trấn đóng để “ngăn chặn” đường xâm nhập của địch. Họ không biết những tiền đồn đó không có khả năng ngăn chặn gì cả.
An Khê nằm giữa hai ngọn đèo Mang và đèo Mang Yang, cứ điểm của Ðệ Tứ Quân Khu Pháp gần Liên Khu 5 cộng sản nhất trên đường 19. Lực lượng trấn đóng An Khê là Tiểu Ðoàn 9 Sơn Cước, tiểu đoàn sơn cước đầu tiên dưới quyền chỉ huy của sĩ quan Việt Nam; tiểu đoàn trưởng 8 tiểu đoàn kia còn là người Pháp.
Lực lượng cộng sản gồm 12 tiểu đoàn chính quy và 6 tiểu đoàn địa phương. Lực lượng Pháp gồm 5 liên đoàn lưu động 11, 21, 41, 42 và 100; trừ liên đoàn 100, 4 liên đoàn kia là những đơn vị Việt Nam.
Ngày 18 tháng Giêng 1953, bộ tư lệnh Pháp quyết định mở chiến dịch Atlante; mọi cuộc hành quân trong khuôn khổ này vẫn rập theo khuôn mòn lối cũ, nghĩa là quân Pháp tìm đánh địch quân, nhưng các đơn vị cộng sản không trong thế bó buộc phải tiếp chiến, họ có thể tránh né khi bất lợi, chờ để tấn công khi hội đủ những thuận lợi giao tranh.
Quân Pháp không có sự lựa chọn này; họ không thể tránh né giao tranh khi địch quân tấn công họ trong đồn bót họ trú đóng, hay trên đường lộ họ di chuyển.
Ðó là trường hợp của Liên Ðoàn 100 khi họ bị phục kích tại đèo Mang Yang.
Thành phần nòng cốt của Liên Ðoàn là tiểu đoàn Triều Tiên, vừa được di chuyển từ chiến trường Triều Tiên về Việt Nam sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên chấm dứt. Tại Sài Gòn, tiểu đoàn này được biến cải lên cấp liên đoàn với sự gia nhập của 2 đại đội biệt kích nổi tiếng là Commando Bergerol, tiểu đoàn lưu động của trung đoàn 43 bộ binh thuộc địa, tiểu đoàn này gồm lính Pháp và lính Miên rất thiện chiến; liên đoàn còn nhận thêm một liên đội pháo binh của trung đoàn 10 pháo binh thuộc địa, trang bị bằng 12 khẩu 105 ly; thành phần kỵ binh gồm 12 chiến xa của trung đoàn 5 kỵ binh.
Tổng cộng đại tá Barrou, liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 100, có 3,500 quân nhân dưới quyền chỉ huy. Lên thử lửa tại chiến trường Cao Nguyên, liên đoàn này bị liên tiếp phục kích tại Kon Brai, rồi trên quốc lộ 14. Quân lính Pháp trong liên đoàn 100 rất thiện chiến, và vũ khí trang bị cho họ cũng tương đối dồi dào, nhưng họ vẫn không tránh được 2 nhược điểm là lệ thuộc vào trục lộ, và bị bó tay trong thế phòng thủ đồn bót.
Gần một tiểu đoàn của Liên Ðoàn đóng đồn tại Dak Doa, bị hai trung đoàn cộng sản tấn công và tràn ngập. Quân cộng sản vẫn khai thác quy luật chiến thuật “chỉ cần mạnh hơn đối phương tại một điểm, và trong một lúc” để chiến thắng.
Quân trú phòng đại bại: trong số 445 binh sĩ chỉ còn 40 người sống sót. Nhưng sau đó trong hai trận giao tranh tại La Pit và Plei Rin, Liên Ðoàn phục hận bằng cách loại trung đoàn 803 cộng quân ra khỏi vòng chiến đấu trong một thời gian dài. Người Pháp ước lượng trung đoàn này tổn thất gần 3,000 người, nhưng dĩ nhiên đó chỉ là ước lượng.
Trận giao tranh cuối cùng của Liên Ðoàn 100 xẩy ra vào năm sau, 1954. Cuối tháng 5, Liên Ðoàn được điều động đến An Khê để thiết lập một hệ thống cứ điểm phòng thủ giống mô hình Ðiện Biên Phủ. Một tiểu đoàn khinh quân Việt Nam, tiểu đoàn 520, được biệt phái tăng cường cho họ, tiểu đoàn trưởng là một nhà văn khá nổi tiếng --thiếu tá Nguyễn Bính Thinh.
Một đại đội công binh cũng được tăng phái để giúp Liên Ðoàn 100 mở rộng sân bay An Khê, từ trước đến nay vẫn chỉ có một đường bay ngắn để loại phi cơ chuồn chuồn đáp và cất cánh. Công binh cũng còn có nhiệm vụ thực hiện một hệ thống mìn giữa các cứ điểm phòng thủ.
Mọi việc được thực hiện cấp tốc, máy ủi đất làm việc cả ban đêm.
Trong lúc thực hiện mọi công tác phòng thủ, Barrou tung quân ra đẩy nhiều mũi dùi về phía duyên hải thăm dò trận liệt của quân cộng sản. Lực lượng đối phương vẫn tiếp tục chiến thuật cũ, khai thác 2 lợi thế của họ là tấn công vào những đồn bót nhỏ quanh An Khê, và phục kích đánh đoàn công voa tiếp tế hàng tháng cho cứ điểm này.
Những tổn thất ngày một nhiều trên quốc lộ 19 khiến bộ tư lệnh Ðệ Tứ Quân Khu quyết định ngưng tiếp vận cho An Khê bằng đường bộ. An Khê trở thành một cứ điểm cô lập, chỉ còn liên hệ với bên ngoài bằng đường hàng không.
Trong lúc tập đoàn cứ điểm An Khê chưa hoàn tất, thì tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ lâm vào cảnh tuyệt vọng: những cứ điểm xa lần lượt bị cộng quân tấn công và tràn ngập; vòng đai Ðiện Biên Phủ mỗi ngày một co rút lại, việc tản thương không thực hiện được nữa vì phi trường nằm trong tầm đạn của pháo binh cộng sản.
Bộ tham mưu Pháp tại Ðiện Biên Phủ
Ðiện Biên Phủ thất thủ
Thời tiết vùng thượng du lại quá xấu khiến những cuộc oanh tạc của không lực Pháp không đạt được kết quả họ mong muốn. Thêm vào đó dàn cao xạ 37 ly của Nga liên tục bắn hạ nhiều phi cơ Pháp. Ngày 15 tháng Ba 1954 một chiếc khu trục Hellcat của hải quân Pháp bị bắn rơi trên không phận Ðiện Biên Phủ, trước đó hai ngày một chiếc Hellcat khác cũng bị rơi vì thời tiết xấu. Ngày 31 tháng Ba, một phóng pháo cơ Privateer bị hạ, phi hành đoàn không ai sống sót. Ngày mùng 9 và ngày 12 tháng Tư hai chiếc Hellcat bị bắn rơi, ngày 23 và ngày 26, thêm 2 chiếc nữa.
Ngày 26 tháng Tư, hòa hội Génève khai mạc càng khiến chiến trường Ðiện Biên Phủ trở thành sôi động hơn, Cộng quân đẩy mạnh cố gắng quân sự hy vọng đạt chiến thắng trên chiến trường để kết thúc chiến tranh với những điều kiện thuận lợi cho họ trên bàn hội nghị.
Nguyên ngày 7 tháng 5 Ðiện Biên Phủ nằm dưới một trận mưa pháo của những họng súng liên hợp Katiouchkas (dương cầm Staline), đến 5 rưỡi chiều thì cứ điểm Castor thất thủ. Ðiện Biên Phủ đầu hàng.
Bộ tư lệnh viễn chinh Pháp quyết định không để Ðiện Biên Phủ tái diễn tại An Khê, nhưng họ lại tái diễn cuộc rút quân thê thảm tại Cao Bằng năm 1950.
Liên đoàn 100 không còn con đường nào khác quốc lộ 19 để rút lui, họ cũng biết đòn hẹn của Cộng quân chờ họ trên 90 cây số đường rừng, và nhiều sĩ quan Pháp đoán được cuộc phục kích sẽ xẩy ra tại đèo Mang Yang, địa điểm lý tưởng để dàn quân phục kích.
Tin tình báo truyền tin cho họ biết đài kiểm thính ghi nhận cuộc bôn tập của những trung đoàn Cộng quân 810, 120, 96 và cả trung đoàn 803 đã bị tổn thất nặng trong trận La Pit đổ dồn về đường 19 chờ đánh liên đoàn 100 trong cuộc rút quân. Phòng nhì Quân Khu 4 ước lượng lực lượng phục kích lên đến 15,000 người đón đánh 3,500 quân của Liên Ðoàn 100.
Bộ tư lệnh quân Pháp biết rất nhiều chi tiết về cuộc phục kích của địch, nhưng không biết bí quyết dựng cho quả trứng đứng theo chiều cao. Không ai nghĩ đến việc đập một đầu quả trứng ra để dễ dàng dựng nó đứng lên.
Barrou thận trọng cho bộ binh đi bộ, đi trước, và không đi trên mặt trải nhựa của quốc lộ 19, chấp nhận cuộc rút quân có thể dài hơn vài ngày, nhưng họ còn về được tới Pleiku. Ông không khinh địch, nhưng ông vẫn lệ thuộc vào mặt đường.
Ðoàn công voa dài 8 cây số chuyển bánh trong thứ tự: tiểu đoàn lưu động 43 mở đầu cùng với những xe cơ giới của công binh, theo sau là đoàn xe kéo đại bác di chuyển dưới sự yểm trợ của tiểu đoàn 520 Khinh Quân và liên đội xe xích sắt half-track, rồi đến đoàn xe của bộ chỉ huy Liên Ðoàn và của bộ chỉ huy trung đoàn 10 pháo binh, xe bồn chở nhiên liệu, xe thơ của bưu điện, xe cứu thương của bệnh viện lưu động, và đoạn hậu là tiểu đoàn Triều Tiên.
Ðúng 8 giờ sáng ngày 24 tháng Sáu, đoàn xe 240 chiếc rời An Khê; 4 đại đội commando Bergerol 5, 6, 7 và 8 đi chặn vòng ngoài, vì đó là những đơn vị có nhiều kinh nghiệm giao tranh với Cộng quân, các tiểu đoàn bộ binh khác cũng đi bộ hộ tống.
Một chiếc Morane 502, loại thám thính cơ nhỏ bay lượn trên không phận; quan sát viên không quân báo cáo có nhiều ụ và hào sâu đào trên đường khoảng PK 15. Ðoàn quân tiến chậm lại, chuẩn bị tư thế sẵn sàng nghênh chiến.
Từ cây số 15, đoàn quân rút lui bắt đầu vấp vào chướng ngại vật, Barrou cho xe bulldozer lên xan bằng những ụ chặn đường đắp bằng đá; đoàn xe ngừng lại chờ cho đường được mở để tiếp tục
Sơ đồ cuộc phục kích
Xác một trong 240 chiếc xe nằm rải rác
trên 3 cây số đường 19
Ðúng vào lúc đoàn xe ngừng dồn cục trên mặt đường, lúc 14 giờ 15, bộ máy tàn sát của cuộc phục kích bắt đầu chuyển động: hàng ngàn quả đại bác, súng cối, đại bác không giật 57 ly, súng cối 81 ly bắn tới tấp vào đoàn xe, đoàn người bất động.
Hoả lực tập trung vào nhóm xe jeep, command car, dodge 4x4 truyền tin nằm giữa đội hình công voa, nên ngay trong phút đầu GM100 đã mất cơ cấu chỉ huy đầu não. Những bộ phận khác cũng bị tổn thất nặng trong đợt khai hỏa đầu tiên của phục binh.
Pháo tháp nằm sát mặt đất trong cảnh cháy nhà lượm đinh
Ðoàn cơ giới công binh bị đại liên 30, thượng liên 50 nhắm bắn vào phòng lái, sát hại tài xế để những chiếc xe kềnh càng tạo chướng ngại làm tắc nghẽn con đường 19 đang biến thành suối máu.
Một ký giả Pháp mô tả, “Cuộc phục kích kiến hiệu đến mức khiếp đảm; khiếp đảm vì tính chất đột ngột, và khiếp đảm vì cường độ vô cùng lớn lao của hỏa lực trực xạ và hỏa lực yểm trợ. Hỏa lực yểm trợ đột ngột ngưng như nó 15 phút trước nó đột ngột và vũ bão phát động.
Quân Pháp chưa kịp nhận ra là họ thôi không còn bị pháo nữa thì họ đã phải đối diện với những chú “bộ đội” (trong nguyên bản Pháp viết là “bodois”) hò hét chạy tới trước mặt họ trong tư thế xung phong, tay cầm lựu đạn, súng gắn lưỡi lê. Liên Ðoàn 100 không điều động được, vì hai nguyên nhân, một là không còn ai ra lệnh cho họ làm gì nữa cả, bộ chỉ huy Liên Ðoàn đã bị tê liệt ngay từ loạt đạn đầu, và hai là họ bị kẹt trong thế đất đèo, một bên là núi cao, bên kia là vực sâu, mọi vị trí chiến đấu được đều nằm trong tay phục binh, họ lại còn bị kẹt giữa đoàn xe đang bắt đầu cháy, bị bắn hay bị đốt, xe bồn phát hỏa, xe đạn bùng nổ, trong lúc cuộc xung phong biển người vẫn ồ ạt tràn lên.
Hai đại đội tiểu đoàn BM (bataillon de marche - tiểu đoàn lưu động), đơn vị thiện chiến nhất của trung đoàn 43 Colonial (thuộc địa), vừa di chuyển vừa tác xạ chống lại những đợt xung phong của cộng quân, phá được vòng vây, vượt ra ngoài; hai đại đội còn lại trong nhiệm vụ bảo vệ bộ chỉ huy Liên Ðoàn 100 bị tiêu diệt cùng với những sĩ quan tham mưu họ bảo vệ.
Những chiếc xe bọc sắt sử dụng tối đa những khẩu đại liên, thượng liên trên xe để phản công; chính đại tá Barrou cũng nhẩy lên xe thay chỗ anh xạ thủ vừa trúng đạn gục ngã, bắn khẩu 12 ly 7 chống trả những đợt xung phong đầu tiên của địch, nhưng rồi ông cũng gục xuống, đầu gối trúng 2 viên đạn súng cá nhân. Quanh ông, các sĩ quan tham mưu của Liên Ðoàn đều đã gục chết, có người chết ngay trên xe.
Tiểu đoàn Triều Tiên đi đoạn hậu chưa bị tổn thất, điều động vội lên để tiếp cứu những đơn vị di chuyển trong đoạn đầu và giữa của đoàn xe đang bị tấn công; đại đội 7 commando Bergerol cũng tiến vào nhập cuộc.
Mỗi đơn vị hoạt động riêng rẽ trong thế phản ứng tự vệ và tiếp cứu, chứ không còn được điều động phối hợp nữa, và cố gắng của họ cũng không tạo được một thay đổi nhỏ nào cho tình hình chung.
Một trung úy Pháp mô tả trận đánh, “quanh tôi bè bạn đồng đội lần lượt gục xuống; vài phút một người trong giai đoạn đầu, sau đó mỗi phút một người, rồi chót hết, nhiều người lính buông súng trong cùng một phút; người thì chết, kẻ chỉ bị thương, nhưng họ đều không còn chống cự được nữa.
“Quân nhân những đơn vị mở đầu đoàn công voa chạy lui trở về phiá sau, trung đội tôi bảo vệ một đoạn đường đang được dùng làm chỗ đón nhận thương binh được di chuyển từ chặng đầu xuống, và từ chặng sau lên.
“Tôi chỉ huy trung đội 4 lần mở đường máu để di tản thương binh về phía sau, nhưng sau khi xe dịch được vài trăm thước, chúng tôi rơi vào xạ trường của một khẩu 12.7 của địch.
Một chiếc xe bọc sắt xe dịch bằng số de, xạ thủ trên xe nổ súng chống trả những đợt xung phong của địch, người lái xe mở một cánh cửa xe, ngoái mình nhìn ra ngoài tránh không để xích sắt nghiền nát bạn đồng đội.
“Tôi nhận ra ông ta là thiếu tá Kleinmann, một trong vài sĩ quan cao cấp chưa bị thương hay tử thương; ông ta bảo tôi, ‘tôi mở đường lui, anh đưa thương binh theo tôi.’
“Tôi tự hỏi quân đội Pháp còn có cái gọi là không lực hay không.”
Quân đội Pháp, hoặc nói chính xác hơn, đạo quân viễn chinh Pháp tại Ðông Dương không còn gì nữa, kể cả bộ binh; 46 ngày sau khi Ðiện Biên Phủ thất thủ, Liên Ðoàn 100 bị tiêu diệt chỉ trong một cuộc phục kích, cách bộ tư lệnh Quân Khu 4 đặt tại Ban Mê Thuột, nửa giờ bay.
Việc quân Pháp lệ thuộc vào đường 19, để Liên Ðoàn 100, một đơn vị tinh nhuệ của Pháp bị phục kích, và để quân nhân trong Liên Ðoàn phải tác chiến trong những điều kiện hoàn toàn thất thế, bất lợi và gục ngã đau đớn là hậu quả sai lầm chiến lược của đại tướng Navarre, vị tư lệnh chiến trường Ðông Dương; nhưng việc không tổ chức những đơn vị đón tiếp trên quốc lộ 19 để bảo vệ cuộc rút quân của LÐ, và không dự trù một không lực đủ mạnh để yểm trợ cuộc lui quân lại là lỗi lầm chiến thuật của tướng De Beaufort.
Năm đó, là một trung úy 23 tuổi đóng quân tại An Khê, tôi theo dõi cuộc lui quân của LÐ 100, và dĩ nhiên học được bài học đắt giá LÐ này trả cho việc lệ thuộc vào đường giao thông.
Ðiều đáng buồn là 21 năm sau, tôi chứng kiến việc quân Bắc Việt hoàn toàn lệ thuộc vào quốc lộ 1 trong cuộc tiến quân của chúng từ Nha Trang xuống Phan Rang, và đau đớn nhận ra là chúng ta không khai thác nhược điểm này của địch.
Toàn bộ cầu cống, đường xá trên quốc lộ 1, đường tiến quân của Việt Cộng, đều còn nguyên vẹn, trong lúc không quân của chúng ta có thể, chỉ trong 24 giờ, thả bom đánh xập trọn vẹn hệ thống cầu cống, hải pháo của chúng ta có thể thiết lập trận địa pháo để ngày đêm đánh phá, ngăn chận, gây tê liệt cho mọi đơn vị địch di chuyển trên con đường bờ biển này, và bộ binh của chúng ta có thể phục kích tiêu diệt địch, như cộng quân tiêu diệt LÐ 100.
(Xin đọc “trận Phan Rang” trong vần P)
Trở lại với An Khê, trong giai đoạn 2 của chiến tranh, và với Sư Ðoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ (SÐ1KK) cũng đến trấn đóng tại đây. Ðơn vị này có nhiều phương tiện vận chuyển và hoàn toàn không lệ thuộc vào 4 con quốc lộ 1, 14, 19, 21 đóng khung chiến trường Cao Nguyên và Duyên Hải; do việc SÐ1KK không lệ thuộc vào đường giao thông nên trong suốt 5 năm trời sư đoàn hoạt động tại Việt Nam, chưa một lần họ bị Việt Cộng phục kích, mặc dù chúng đụng trận với họ nhiều lần hơn đụng với các đại đơn vị khác của Hoa Kỳ.
Tất cả những cuộc đụng độ này còn mang một tính chất khác: Việt Cộng không tìm đến tấn công SÐ1KK, mà bị họ tìm tấn công. Nói một cách khác họ chủ động chiến trường
SÐ1KK có một địa vị danh dự trong quân sử Hoa Kỳ; được thành lập từ ngày 13 tháng Chín 1921 tại Fort Bliss sư đoàn đã tham dự Ðệ Nhị Thế Chiến trên mặt trận Thái Bình Dương, tấn công quân Nhật. Tháng Hai 1944 họ tấn công quần đảo Admiralty, tháng 10 cùng năm họ đổ bộ vào Leyte, Phi Luật Tân, và là đơn vị đầu tiên tái chiếm Manila, họ còn gởi một cánh quân không kỵ bay 100 dậm vào sâu trong hải đảo này để giải thoát tù binh đồng minh. Sư đoàn này cũng là đơn vị đầu tiên bay vào chiếm đóng Ðông Kinh, ngày mùng 8 tháng Chín 1945.
SÐ1KK được đưa sang Triều Tiên tham chiến từ ngày 18 tháng Bẩy 1950 đến ngày 22 tháng Chạp 1951, và sau chiến tranh họ trở lại đó vào năm 1957.
Năm 1964, tại Fort Benning Sư Ðoàn 11 Không Kỵ được chọn để thực nghiệm chiến thuật không kỵ tấn công, và sau đó được sát nhập vào SÐ1KK, và được gởi sang Việt Nam.
Ngày 14 tháng 11/1965, ba tiểu đoàn 1/7, 2/7 và 1/5 của họ được đổ xuống vùng Tây Bắc Pleime để tìm đánh 3 trung đoàn 33, 66, và 320 của Bắc Việt.
SÐ1KK chủ động tìm đánh Việt Cộng
Trận đánh được mệnh danh là “Trận Ia Drang”, lấy tên con sông chẩy qua thung lũng nơi giao tranh xẩy ra, trận chạm trán quy mô đầu tiên giữa quân đội Mỹ với quân Bắc Việt.
Trận đánh được tướng Harold Moore viết thành sách, quyển We Were Soldiers Once ... And Young. Năm 2002, Randall Wallace lấy đoạn đầu của sách quay thành phim; và băng tần truyền hình The National Geographic thực hiện một chương trình "Day Under Fire: Vietnam War" xây dựng trên trận tấn công Ia Drang.
Họ chủ động tìm đánh Việt Cộng
Sau trận “trình làng” SÐ1KK tiếp tục chiến thuật phòng thủ miền Nam bằng cách tấn công những lực lượng cộng sản chỉ chuyên tấn công vào những cứ điểm phòng thủ của quân đội VNCH. Nhật ký hành quân của họ ghi nhận nhiều cuộc hành quân trong mỗi tháng Sư Ðoàn có mặt trên chiến trường Việt Nam.
Một cuộc hành quân năm 1967
Ðóng quân tại An Khê, nhưng SÐ1KK không
giới hạn hoạt động của họ vào lãnh thổ Vùng 2 CT
Họ tác chiến kiến hiệu trong mọi
điều kiện của chiến trường…
Họ vẫn di chuyển trên trục lộ …
vẫn sử dụng thiết giáp, vì họ là một đơn vị kỵ binh
nhưng họ thích ứng với mọi thế đất
Nhờ thắng trận trận Ia Drang, SÐ1KK được tổng thống Hoa Kỳ gắn huy chương đơn vị. Trong suốt thời gian 13 tháng sau đó, họ lùng đánh mọi đơn vị lớn của quân chính quy Bắc Việt lẩn trốn trên lãnh thổ Vùng II Chiến Thuật, kiến hiệu đến nỗi chúng phải rút qua bên kia biên giới Miên và Hạ Lào.
Ðầu năm 1966, SÐ1KK tiến đánh các đơn vị chủ lực của Việt Cộng tại Bình Ðịnh trong một loạt hành quân tấn công được gọi chung là chiến dịch Thần Phong II; lần này họ phối hợp với TQLC Hoa Kỳ; tháng Tám 1966 họ trở lại Pleiku với chiến dịch Revere II; tại Bình Thuận, những cuộc hành quân cấp tiểu đoàn của Sư Ðoàn Thiên Binh (SÐ1KK) tiêu diệt nhiều đơn vị của Việt Cộng. Từ tháng Mười 1966 đến tháng Hai 1967 SÐ1KK tấn công những đơn vị của Liên Khu 5 Việt Cộng tại Bình Ðịnh qua chiến dịch Thayer II, rồi chiến dịch Pershing tấn công những đơn vị Việt Cộng tại khu Kim Sơn, một bộ phận khác của Sư Ðoàn tấn công Sư Ðoàn 610 của Bắc Việt. Sư đoàn Bắc Việt tan rã với những tổn thất khiếp đảm: 5,400 bị giết, và trên 2,000 tù binh.
Trong suốt quá trình tác chiến chủ động tấn công địch của SÐ1KK, Sư Ðoàn chỉ bị cầm chân một thời gian ngắn trong thế thủ khi họ bị đưa vào trấn đóng Khe Sanh thay chỗ cho TQLC Hoa Kỳ mệt mỏi vì bị cầm chân trong mặt trận này, mặt trận Việt Cộng chỉ đánh “diện”, nhưng kế nghi binh của chúng lừa được Westmoreland, trong lúc điểm của trận Mậu Thân là Sài Gòn, Huế và trên 100 tỉnh, quận lỵ, thị trấn của Nam Việt.
Trong trận Mậu Thân, SÐ1KK trở lại thế chủ động tấn công; họ tiến đánh những đơn vị bao vây mặt Bắc và mặt Nam Nội Thành; Bắc Việt đưa thêm chủ lực quân vào ém trong thung lũng Ashau để tăng cường mặt trận Huế, nhưng Thiên Binh đã kịp thời nhẩy vào tận xào huyệt của chúng, tìm và diệt chúng.
SÐ1KK đóng đúng vai trò tấn công chiến thuật trong chiến lược phòng thủ Nam Việt; họ không bị cầm chân trong thế phòng thủ diện địa, phòng thủ căn cứ, mặc dù căn cứ họ đóng quân là Camp Radcliffe tại An Khê, và Camp Evans, phía Bắc Huế trong Tết Mậu Thân, cả hai điạ điểm đều là yết hầu mọi nỗ lực vận động chiến của Việt Cộng.
Thử hình dung 12 sư đoàn chủ lực Việt Nam cũng được sử dụng trong thế công, tìm đánh Việt Cộng chứ không bị cầm chân trong thế “bịt bông”, thụ động nằm chờ chúng đánh, thì cuộc diện chiến trường đã khác hẳn.
SÐ1KK có mặt trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật, và tham dự mọi cuộc hành quân quy mô. Tháng Mười 1968, họ hành quân trên lãnh thổ Vùng III, tấn công những đơn vị chính quy Việt Cộng phía Bắc SàiGòn, nhất là trên biên giới Việt Miên; họ cũng phối hợp với hải quân Hoa Kỳ trong chiến dịch được đặt tên là NAV-CAV.
SÐ1KK bắt đầu rút khỏi chiến trường Việt Nam đầu năm 1971 theo kế hoạch Việt Nam Hoá Chiến Tranh của chính phủ Nixon. Chính quân lực Hoa Kỳ cũng đánh giá rất cao thành quả họ đạt được trên chiến trường trong suốt 2,056 ngày họ tham chiến tại Việt Nam.
Nhưng tổn thất của SÐ1KK cũng thật khiếp đảm: 5,444 tử sĩ, và 26,592 thương binh; tỉ lệ này bằng 2 lần quân số 16,700 quân họ có trong thời gian gần 6 năm tham chiến tại Việt Nam, với tổn thất mỗi ngày 2 quân nhân tử trận và 11 người bị thương.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)